Thực đơn
LGM-30 Minuteman Lịch sửSự ra đời của ICBM Minuteman có sự góp công lớn của Đại tá không quân Edward N. Hall, người mà năm 1956 giữ chức trưởng bộ phận lực đẩy thuốc phóng rắn thuộc đơn vị Bộ phận phát triển phía Tây của công ty General Bernard Schriever. Đơn vị này được thành lập nhằm phát triển tên lửa liên lục địa SM-65 Atlas và HGM-25A Titan I. Nhiên liệu rắn khi đó thường được sử dụng trong các loại tên lửa tầm ngắn. Cấp trên của Hall quan tâm đến tên lửa tầm ngắn và tầm trung sử dụng nhiên liệu rắn, đặc biệt là ở khu vực châu Âu, nơi mà khả năng chuyển trạng thái chiến đấu nhanh là rất quan trọng vì luôn nằm trong mối đe dọa của các máy bay chiến đấu Liên Xô. Nhưng Hall tin chắc rằng tương lai các ICBM có tầm bắn 5.500 hải lý (10.200 km; 6.300 dặm)[9](tr152) sẽ sử dụng nhiên liệu rắn.
Cũng vào thời gian này Hall bắt đầu tài trợ cho nghiên cứu của Boeing và Thiokol trong việc sử dụng nhiên liệu rắn amoni perchlorate composite propellant. Phỏng theo thiết kế của người Anh, họ đổ nhiên liệu rắn vào ống xi lanh động cơ lớn có lỗ dạng hình sao chạy dọc trục xi lanh. Điều này cho phép nhiên liệu rắn được đốt cháy dọc theo suốt chiều dài của xi lanh, chứ không phải chỉ cháy ở đoạn cuối xi lanh như trong các thiết kế trước đó. Tốc độ cháy tăng lên đồng nghĩa với việc sinh ra nhiều lực đẩy hơn, cũng đồng nghĩa với việc nhiệt sẽ được tỏa ra đều ở toàn bộ thân động cơ, thay vì chỉ ở đoạn cuối, và bởi vì nhiên liệu được đốt cháy từ bên trong ra bên ngoài, nó không chạm tới thành vỏ chứa nhiên liệu trước khi toàn bộ nhiên liệu được đốt cháy hết. Để so sánh, ở các thiết kế trước đó, sự đốt nhiên liệu bắt đầu chủ yếu ở một đầu xi lanh, rồi lan tới đầu còn lại, có nghĩa là tại một phần nhỏ trên thân tên lửa sẽ phải chịu một tải trọng và nhiệt lượng lớn.[10]
Hệ thống dẫn đường của tên lửa liên lục địa được dựa trên không chỉ hướng bay của tên lửa mà còn dựa trên thời điểm mà động cơ tên lửa được ngắt và tách bỏ. Nếu có quá nhiều lực đẩy thì đầu đạn sẽ bay quá mục tiêu, còn quá ít, thì đầu đạn không thể bay tới mục tiêu. Nhiên liệu rắn thường khó tính được thời gian cháy, và lực đẩy tức thời mà nó tạo ra, do đó người ta nghi ngờ độ chính xác của tên lửa liên lục địa sử dụng nhiên liệu rắn. Điều này ban đầu có vẻ là một vấn đề không thể giải quyết nhưng các kỹ sư đã thiết kế các van có thể mở ra khi hệ thống dẫn đường ra lệnh ngắt động cơ, việc này gây ra giảm áp suất đột ngột đến nỗi nhiêu liệu rắn tự phun ra và nhiên liệu tên lửa ngừng cháy, động cơ ngừng hoạt động[10]
Hải quân Mỹ là đơn vị đầu tiên sử dụng công nghệ nhiên liệu rắn cho tên lửa liên lục địa. Họ tham gia trong chương trình phát triển cùng với Lục quân Mỹ nhằm phát triển tên lửa nhiên liệu lỏng PGM-19 Jupiter, tuy nhiên hải quân Mỹ luôn bày tỏ nghi ngờ về loại tên lửa này. Họ cho rằng sẽ là quá mạo hiểm khi sử dụng tên lửa nhiên liệu lỏng trên tàu, đặc biệt là trên các tàu ngầm. Những thành công trong chương trình phát triển nhiên liệu rắn cùng với lời hứa của Edward Teller về một loại đầu đạn hạt nhân nhỏ hơn được phát triển trong Dự án Nobska, đã khiến cho Hải quân Mỹ từ bỏ chương trình tên lửa Jupiter và bắt đầu phát triển tên lửa nhiên liệu rắn của riêng mình. Những nghiên cứu của Aerojet cùng với Hall đã được áp dụng cho tên lửa UGM-27 Polaris kể từ tháng 12/1956.[11]
Không quân Mỹ cho rằng không cần thiết phải có tên lửa ICBM nhiên liệu rắn. Việc phát triển các tên lửa ICBM SM-65 Atlas và SM-68 Titan đang được tiến hành, với "khả năng lưu trữ" nhiên liệu lỏng đang được nghiên cứu, để tên lửa có thể ở trạng thái trực chiến trên bệ phóng lâu hơn. Hall coi nhiên liệu rắn không chỉ là cách để nâng cao thời gian chờ trước khi phóng và độ an toàn cho mỗi lần phóng, mà còn là cách để giảm sâu giá thành của ICBM nhờ vậy mà có thể sản xuất được tên lửa với số lượng lớn lên đến hàng ngàn quả. Ông cũng nhận thức được rằng những dây chuyền lắp ráp được vi tính hóa sẽ cho phép việc sản xuất tiến hành liên tục, và các thiết bị tương tự sẽ giúp chỉ cần một nhóm kỹ sư cũng có thể giám sát sự vận hành của hàng tá hoặc hàng trăm tên lửa. Do đó, tên lửa nhiên liệu rắn sẽ đơn giản hơn và dễ bảo trì hơn.[9](tr153)
Kế hoạch cuối cùng của Hall là xây dựng các "trang trại" tên lửa tích hợp bao gồm nhà máy, giếng phóng tên lửa, vận chuyển tên lửa và tái chế. Mỗi một trang trại sẽ có khả năng sản xuất khoảng 1.000 đến 1.500 tên lửa trong một dây chuyền sản xuất liên tục. Hệ thống trong tên lửa sẽ phát hiện các lỗi hỏng hóc, nếu lỗi, nó sẽ được loại bỏ và tái chế, trong khi các tên lửa mới chế tạo sẽ thế chỗ.[9](tr153) Thiết kế của tên lửa dựa trên tiêu chí đơn giản và rẻ nhất có thể, giảm kích thước và độ phức tạp bởi "Điều đầu tiên làm nên sự thành công của một loại vũ khí là giá thành rẻ của nó so với mục tiêu mà nó tiêu diệt, và các thông số khác - độ chính xác, tính dễ bị tổn thương và độ tin cậy - là tiêu chí xếp thứ hai."[9](tr154)
Tuy nhiên các kế hoạch của Hall không được chấp nhận và bản thân ông cũng xung đột với các tên tuổi trong lĩnh vực phát triển tên lửa. Công ty Ramo-Wooldridge tập trung vào độ chính xác của tên lửa nhưng Hall cho rằng với nhiệm vụ của tên lửa ICBM là nhắm vào các thành phố lớn của Liên Xô, và cho rằng một lượng áp đảo tên lửa sẽ mang tính răn đe lớn hơn là chỉ có số ít tên lửa chính xác cao.[9](tr154) Hall được cho là đã gây xích mích với người khác vào năm 1958 Schriever đã loại ông khỏi dự án phát triển Minuteman và điều ông đến Anh để giám sát việc triển khai tên lửa Thor IRBM.[9](tr152) Vào năm 1959 Hall trở về Mỹ, nghỉ hưu rời khỏi Không quân, nhưng ông vẫn nhận được Huân chương quân công lần thứ 2 vào năm 1960 vì những cống hiến trong lĩnh vực nhiên liệu rắn.[10]
Mặc dù không còn tham gia chương trình phát triển ICBM Minuteman, nhưng những nghiên cứu của Hall về cách giảm thiểu giá thành đã được áp dụng cho phát triển loại tên lửa mới có đường kính 71 inch (1,8 m), nhỏ hơn nhiều so với tên lửa Atlas và Titan (có đường kính 120 inch (3,0 m)), điều này đồng nghĩa với loại tên lửa mới nhỏ hơn, và silo phóng cũng rẻ hơn. Mục tiêu của Hall về giảm giá thành tên lửa đã trở thành hiện thực, mặc dù ý tưởng về một trang trại sản xuất tên lửa đã không thành..[9](tr154)
Các tên lửa tầm xa kiểu cũ sử dụng nhiên liệu lỏng, mà nhiên liệu lỏng chỉ được bơm vào tên lửa ngay trước khi phóng. Thời gian nạp nhiên liệu mất từ 30 đến 60 phút. Mặc dù mất nhiều thời gian cho việc nạp nhiên liệu cho tên lửa nhưng vào thời điểm đó việc này không phải là một trở ngại lớn do người ta cũng phải mất một khoảng thời gian tương tự để cài đặt cho hệ thống dẫn đường quán tính, thiết lập vị trí ban đầu của tên lửa, và vị trí của mục tiêu.[9](tr156)
Tên lửa Minuteman được thiết kế để có thể sẵn sàng phóng trong vài phút. Trong khi các tên lửa nhiên liệu lỏng đã rút ngắn dần thời gian bơm nhiên liệu, thì việc lập trình cho hệ thống dẫn đường quá tính vẫn còn mất nhiều thời gian. Để tiến hành phóng sớm, hệ thống dẫn đường quán tính phải liên tục chạy và đồng bộ, dẫn đến dễ gặp vấn đề về cơ khí, đặc biệt là đối với các hệ thống dẫn đường quán tính sử dụng vòng bi.[9](tr157)
Trong bối cảnh đó, công ty Autonetics đã có kinh nghiệm trong việc thiết kế và chế tạo các ổ bi chứa khí nén mà họ tuyên bố chúng đã hoạt động liên tục từ năm 1952 đến năm 1957.[9](tr157) Autonetics sau đó đã gây dựng một cấu hình ổ bi trong đó bi có thể quay theo 2 hướng. Ở các giải pháp thông thường người ta sử dụng 2 ổ bi đỡ ở hai đầu cho phép nó quay xung quanh một trục duy nhất. Thiết kế của Autonetics đồng nghĩa với cơ cấu dẫn đường quán tính chỉ cần hai con quay hồi chuyển thay vì ba con quay như thông thường.[9](tr159)
Các kỹ sư cũng sử dụng máy tính kỹ thuật số thay thế cho máy tính tương tự. Các tên lửa thế hệ cũ sử dụng 2 hệ thống máy tính chuyên dụng. Một chiếc chạy chương trình lái tự động để tên lửa giữ ổn định đường bay theo chương trình đã định trước, và một chiếc còn lại so sánh thông tin từ hệ thống dẫn đường quán tính đến tọa độ mục tiêu và nếu có bất cứ sai sót nào, nó sẽ truyền lệnh đến hệ thống tự lái để điều chỉnh lại đường bay. Để đơn giản hóa, tên lửa Minuteman chỉ sử dụng một chiếc máy tính duy nhất có tốc độ nhanh, để thực hiện cả hai chức năng này.[9](tr160)
Vì máy tính dẫn đường không hoạt động khi tên lửa còn trong silo nên người ta sử dụng một chiếc máy tính tương tự có khả năng lập trình để giám sát các cảm biến khác nhau và các thiết bị kiểm tra. Ở các tên lửa ICBM đời cũ thì điều này được thực hiện bởi các hệ thống gắn ngoài, yêu cầu hàng km dây cáp và rất nhiều cổng kết nối. Để lưu trữ các chương trình đa nhiệm, người ta sử dụng máy tính D-17B sử dụng ổ cứng.[9](tr160)
Chế tạo chiếc máy tính cùng với các yêu cầu đặt ra về hiệu năng, kích cỡ, khối lượng cần thiết đòi hỏi phải sử dụng các bóng bán dẫn, vào thời điểm đó rất đắt và không đáng tin cậy. Những thử nghiệm ban đầu sử dụng máy tính có bóng bán dẫn BNIAC để dẫn đường và hệ thống dẫn đường trên tên lửa SM-64 Navaho đã thất bại và rơi vào quên lãng. Không quân và hãng Autonetics đã dành hàng triệu đô la vào chương trình nâng cấp bóng các bán dẫn và độ tin cậy lên gấp 100 lần. Thành quả là chi tiết cấu tạo bóng bán dẫn được cải thiện, giảm đáng kể tỷ lệ hỏng hóc trong dây chuyền chế tạo bóng bán dẫn, từ đó làm giảm giá thành của bóng bán dẫn, mang đến một cuộc cách mạng cho công nghiệp điện tử.[9](tr160–161)
Sử dụng máy tính tổng cũng có tác động lâu dài đến chương trình tên lửa Minuteman và lập trường về hạt nhân của Mỹ nói chung. Giờ đây, với hệ thống máy tính dẫn đường mới, Minuteman có thể dễ dàng lập trình thông tin mục tiêu bằng cách tải thông tin đường bay mới lên ổ cứng máy tính, và việc này hoàn tất chỉ trong vài giờ. Các ICBM đời cũ sử dụng máy tính sử dụng dây dẫn, ngược lại, chỉ có thể tấn công một mục tiêu nhất định do thông tin đường bay chính xác của tên lửa khó có thể lập trình vào hệ thống máy tính.[9](tr156)
Trong quá trình phát triển ban đầu tên lửa Minuteman, Không quân Mỹ cho rằng máy bay ném bom chiến lược có người lái sẽ là phương tiện chính mang vũ khí hạt nhân trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Họ có đủ lượng máy bay ném bom chiến lược để đủ sức ném bom hủy diệt các mục tiêu công nghiệp/ quân sự của Liên Xô.[1](tr202)
Tuy nhiên các tên lửa ICBM của Liên Xô đã làm thay đổi quan niệm này, tuy chúng có độ chính xác thấp với sai số bán kính là 4 hải lý (7,4 km; 4,6 dặm), nhưng chúng mang đầu đạn đủ lớn để tấn công có hiệu quả các căn cứ máy bay ném bom chiến lược của Mỹ vốn không được bảo vệ. Đặc biệt là chưa có hệ thống để phát hiện các vụ phóng ICBM nên một cuộc tấn công bằng tên lửa bất ngờ sẽ khiến cho phi đội máy bay ném bom của Mỹ bị xóa sổ.[1](tr202)
Trước hoàn cảnh đó, Không quân Mỹ coi các tên lửa ICBM của mình có vai trò răn đe nhiều hơn, đủ để khiến cho Liên Xô không dám mở một cuộc tấn công hạt nhân trước. Đối với các ICBM đời mới, được phóng từ giếng phóng, nên có khả năng sống sót trước một cuộc tấn công bằng tên lửa hạt nhân. Trong trường hợp cả Mỹ và Liên Xô đều có cùng một số lượng ICBM tương đương nhau, lực lượng tên lửa chiến lược của Mỹ sẽ có khả năng sống sót sau cuộc tấn công phủ đầu bất ngờ của Liên Xô, và số tên lửa còn lại sẽ đủ khả năng để đáp trả cuộc tấn công, do đó Liên Xô sẽ không mạo hiểm tấn công Mỹ trong trường hợp như vậy.[1](tr202)
Theo kịch bản về một cuộc tấn công hạt nhân trả đũa, các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ tính toán rằng nếu số lượng tên lửa hạt nhân trả đũa của Mỹ có đương lượng nổ tổng cộng là 400 megaton thì sẽ làm cho 30% dân số Liên Xô thiệt mạng cùng với đó là hủy diệt 50% nền công nghiệp, nếu như vụ tấn công trả đũa có quy mô lớn hơn thì mức độ tổn thất của Liên Xô sẽ chỉ tăng lên ít, do các mục tiêu là các thành phố lớn của Liên Xô đều đã bị tấn công. Do vậy các nhà chiến lược cho rằng ngưỡng 400 megaton là ngưỡng răn đe vừa đủ để khiến cho Liên Xô không mạo hiểm tấn công hạt nhân nhằm vào Mỹ bất chấp số lượng tên lửa của Liên Xô là bao nhiêu đi chăng nữa. Tất cả những điều cần phải làm là nâng cao khả năng sống sót của lực lượng tên lửa chiến lược trước cuộc tấn công của tên lửa Liên Xô[1](tr199) Trở lại vấn đề, việc bổ sung các tên lửa ICBM vào trang bị không khiến cho thay đổi vai trò của các máy bay ném bom chiến lược, chúng vẫn đóng vai trò chính trong một cuộc chiến tranh hạt nhân.[1](tr199)
Trong khi Không quân tiếp tục phát triển máy bay ném bom siêu âm mới như chiếc XB-70 thì Hải quân lại sở hữu tên lửa phóng từ tàu ngầm: SLBM UGM-27 Polaris. Polaris có đủ tầm bắn để tàu ngầm hạt nhân chiến lược có thể bắn từ bất kỳ vị trí nào trên biển, hơn nữa nó không dễ bị tấn công như các tên lửa ICBM đặt trên đất liền. Dựa trên các tính toán về tổng lượng nổ 400 Megaton, Hải quân đề ra chương trình chế tạo 41 tàu ngầm mang tên lửa liên lục địa, mỗi chiếc được trang bị 16 quả tên lửa, mang đến một sự răn đe hạt nhân đáng kể.[1](tr197)[1]
Lần thử nghiệm cuối cùng của Minuteman trùng với dịp John F. Kennedy bước chân vào Nhà Trắng. Bộ trưởng quốc phòng mới nhậm chứ, Robert McNamara, được giao trọng trách xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa tốt nhất cho nước Mỹ trong khi nguồn ngân sách được cấp có giới hạn. McNamara đã cân đối lợi ích/chi phí. Dưới thời ông, tên lửa Atlas và Titan đã sớm bị loại bỏ, và tên lửa Titan II (vốn đã được nâng cấp để có khả năng chứa nhiên liệu lỏng được lâu hơn trước khi phóng) cũng bị hạn chế trang bị[1](tr154) McNamara cũng hủy bỏ dự án phát triển máy bay ném bom XB-70 Valkyrie.[1](tr203)
Chương trình phát triển ICBM Minuteman với chi phí thấp hơn cũng đã tác động đến cả các chương trình phát triển tên lửa khác. Tên lửa phòng không lục quân Nike Zeus được thiết kế để đánh chặn các tên lửa hạt nhân Liên Xô nhằm vào các căn cứ không quân chiến lược và các giếng phóng tên lửa, nhưng nó đắt đó, và Không quân Mỹ cho rằng việc chế tạo thêm một ICBM Minuteman khác thay cho quả tên lửa đã bị phá hủy còn tốn kém ít hơn là đầu tư cho Zeus. Hơn nữa, Liên Xô sử dụng các tên lửa ICBM nhiên liệu lỏng vốn đắt đỏ, và họ không thể sản xuất đủ ICBM để cân bằng về tên lửa hạt nhân chiến lược với Mỹ. Cuối cùng dự án Nike Zeus đã bị hủy bỏ vào năm 1963.[2]
LGM-30A Minuteman-I phóng thử lần đầu vào 1/2/1961 từ Mũi Canaveral,[3][4][5][6] và bắt đầu đi vào trang bị từ năm 1962. Không quân Mỹ (USAF) ban đầu dự định đặt tên lửa tại căn cứ không quân Vandenberg, California. Tuy nhiên động cơ đẩy của những loạt tên lửa đầu tiên sản xuất bị lỗi khiến cho tầm bắn của tên lửa giảm từ 6.300 dặm (10.100 km) như ban đầu xuống chỉ còn 4.300 dặm (6.900 km), vì vậy mà nếu như tên lửa được bắn vòng qua Bắc Cực thì tên lửa sẽ không thể bay tới mục tiêu như kế hoạch. Do đó, người ta quyết định đặt tên lửa tại căn cứ không quân Malmstrom tại Montana [4] Với vị trí đặt tên lửa mới thì sẽ cho phép tên lửa dù có bị lỗi ở hệ thống đẩy, cũng sẽ vẫn vươn tới được mục tiêu..[7]
Phiên bản "nâng cấp" LGM-30B Minuteman-I được trang bị tại căn cứ không quân Ellsworth, Nam Dakota, căn cứ không quân Minot, Bắc Dakota, căn cứ không quân Warren, Wyoming, và căn cứ không quân Whiteman, Missouri, vào các năm 1963, 1964. Có tổng cộng 800 tên lửa Minuteman-I đã được trang bị từ tháng 6 năm 1965. Mỗi căn cứ không quân có 150 tên lửa; căn cứ F.E. Warren có 200 tên lửa Minuteman-IB. Căn cứ Malmstrom có 150 tên lửa Minuteman-I, và 5 năm sau có thêm 50 tên lửa Minuteman-II đi vào trang bị căn cứ không quân Grand Forks, Bắc Dakota.
Tên lửa Minuteman I có chiều dài khác nhau tùy theo các phiên bản. Tên lửa Minuteman I/A có chiều dài 53 ft 8 in (16,36 m) trong khi phiên bản Minuteman I/B dài hơn một chút: 55 ft 11 in (17,04 m). Minuteman I có trọng lượng khoảng 65.000 lb (29.000 kg), tầm bắn 5.500 dặm (8.900 km)[8] với bán kính độ chính xác khoảng 1,5 dặm (2,4 km)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ].[7][9][10]
Tên lửa Minuteman I được trang bị máy tính trung tâm Autonetics D-17. Để tăng tốc độ tính toán, máy tính D-17 sử dụng chung kiến trúc của máy tính dữ liệu pháo binh dã chiến M-18 FADAC cũng do Autonetics sản xuất.
Khi mới được đưa vào trang bị vào năm 1962, Minuteman I sử dụng đầu đạn hạt nhân W59 với đương lượng nổ 1 Mt. Bắt đầu sản xuất đầu đạn hạt nhân W56 với đương lượng nổ 1.2 Mt vào tháng 3/1963 và ngừng sản xuất đầu đạn W59 từ tháng 7 cùng năm, tổng cộng đã có 150 đầu đạn được sản xuất và trang bị trước khi bị loại khỏi trang bị vào tháng 6 năm 1969. W56 được sản xuất cho đến tháng 5 năm 1969 với tổng cộng 1000 đầu đạn. Phiên bản đầu đạn mod 0 đến 3 được rút khỏi trang bị vào tháng 9/1966 còn phiên bản đầu đạn mod 4 tiếp tục được trang bị cho đến những năm 1990.[11]
LGM-30F Minuteman-II là bản nâng cấp của ICBM Minuteman-I. Viếc phát triển bắt đầu ngay từ năm 1962, khi Minuteman-I mới được đưa vào trang bị. Minuteman-II bắt đầu được chế tạo và trang bị từ năm 1965 hoàn tất trang bị vào năm 1967. Nó có tầm bắn lớn hơn, trọng lượng đầu đạn lớn hơn, và hệ thống dẫn đường với đường chân trời, cung cấp khả năng tấn công chính xác hơn, cùng với một phạm vi mục tiêu rộng hơn. Một số tên lửa cũng trang bị mồi nhử, giúp cho nó tăng khả năng xuyên qua hệ thống phòng thủ chống tên lửa A-35. Tải trọng mang theo bao gồm một khoang hồi quyển Mk-11C chứa đầu đạn hạt nhân W56 có đương lượng nổ 1,2 triệu tấn TNT (5 PJ).
Minuteman-II dài 57 ft 7 in (17,55 m), trọng lượng 73.000 lb (33.000 kg), tầm bắn 7.000 dặm (11.000 km)[12] với bán kính độ chính xác 1 dặm (1,6 km).[7][9]
Các tính năng mới của Minuteman-II là:
Việc hiện đại hóa hệ thống tập trung vào cơ cấu phóng và điều khiển. Từ đó giảm thời gian phản ứng và tăng khả năng sống sót khi tên lửa bị tấn công hạt nhân. Những sửa đổi cuối cùng trên hệ thống đã tăng khả năng tương thích lên tên lửa ICBM LGM-118A Peacekeeper dự kiến sắp được phát triển. ICBM LGM-118A Peacekeeper mới hơn sau này đã được triển khai trong các giếng phóng của tên lửa Minuteman đã được sửa đổi.
Chương trình tên lửa Minuteman-II là chương trình tên lửa đầu tiên mà đã sản xuất/sử dụng số lượng lớn máy tính mạch tích phân (vi mạch) (Autonetics D-37C). Mạch tích phân của tên lửa Minuteman-II là logic diode-transistor và logic diode sản xuất bởi Texas Instruments. Trước đó, mạch tích phân đã được sử dụng trên máy tính dẫn đường Apollo. Mạch tích phân Apollo là logic điện trở-transistor chế tạo bởi công ty bán dẫn Fairchild. Máy tính trên tên lửa Minuteman-II vẫn sử dụng đĩa từ quay làm bộ nhớ chính. Tên lửa Minuteman-II sử dụng các diode của công ty bán dẫn microsemi.[14]
LGM-30G Minuteman-III bắt đầu được phát triển từ năm 1966 và có nhiều nâng cấp trong từng phiên bản. Tên lửa được triển khai từ năm 1970. Phần lớn các thay đổi trên tên lửa là ở tầng cuối của tên lửa và hệ thống hồi quyển (reentry system-RS). Tầng cuối (tầng 3) được nâng cấp với động cơ vòi phun nhiên liệu lỏng, cung cấp khả năng điều khiển tốt hơn so với động cơ cũ với 4 miệng xả.Những nâng cấp về hiệu suất của Minuteman-III đã mang lại cho nó khả năng linh hoạt trong triển khai khoang hồi quyển và tăng khả năng sống sót trước cuộc tấn công hạt nhân, và tăng khả năng mang tải trọng. Tên lửa vẫn giữ lại hệ thống dẫn đường quán tính chống rung.
Minuteman-III về cơ bản có những tính năng sau:
Thực đơn
LGM-30 Minuteman Lịch sửLiên quan
LGM-30 MinutemanTài liệu tham khảo
WikiPedia: LGM-30 Minuteman //www.amazon.com/dp/B0006EUOOW http://www.spacedaily.com/reports/Boeing_Northrop_... //lccn.loc.gov/2008054725 //lccn.loc.gov/2014021391 //lccn.loc.gov/48034039 //lccn.loc.gov/90005915 //lccn.loc.gov/a57002355 //doi.org/10.2968%2F065002008 http://nuclearweaponarchive.org/Usa/Weapons/Allbom... http://nuclearweaponarchive.org/Usa/Weapons/Mmiii....